Từ những điểm sáng trong năm 2023…
Năm 2023 là một năm đầy thách thức cho kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, xung đột quốc tế, chính sách tiền tệ và tăng giá hàng hóa. Ngoài ra, còn có những khó khăn mới như xung đột ở Trung Đông, lệnh cấm xuất khẩu và sự “an ninh hóa” và “vũ khí hóa” các công cụ thương mại.
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), GDP năm 2023 chỉ đạt 2,6% (thấp hơn mức 3% năm 2022) và tiếp tục chậm lại vào năm 2024 với mức tăng 2,4% trong năm 2024 khi Mỹ và Trung Quốc tăng trưởng chậm. Cùng với đó, lạm phát (CPI) giảm từ mức đỉnh 8,6% năm 2022 xuống còn 5% cuối năm 2023.
Tuy nhiên, năm 2023 cũng là năm bùng nổ của các công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI). AI đã trở thành một lĩnh vực chiến lược, thu hút sự quan tâm và thảo luận của xã hội về cơ hội, tác động và hợp tác quốc tế.
Trong khu vực hội nhập kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn là điểm sáng, với việc thúc đẩy các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) và nâng cao độ độc lập và tự chủ kinh tế. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam đã phục hồi tăng trưởng trong nửa cuối năm 2023, GDP năm 2023 tăng 5,05%, thấp hơn mục tiêu, nhưng có sự cải thiện giữa các quý, lạm phát được kiểm soát ở mức 3,25%. Lĩnh vực doanh nghiệp đã có sự cơ cấu lại, với số lượng doanh nghiệp mới đăng ký đạt mức kỷ lục, tăng 4,6% so với dự kiến. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng 6,2%, với khu vực nhà nước có tăng trưởng nhanh nhất.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn là điểm sáng, với tổng vốn FDI đăng ký và thực hiện đạt gần 36,6 tỷ USD và 23,18 tỷ USD. Kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 683 tỷ USD, với cán cân thương mại dương 28 tỷ USD. Cả xuất khẩu và nhập khẩu giảm, nhưng có sự cải thiện vào cuối năm, đặc biệt từ các FTA.
Về những dự báo kinh tế 2024, thách thức và rủi ro chính trong năm 2024, xung đột chính trị toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp, điều này gây gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia lớn.
Ngoài ra, sự suy thoái của một số ngân hàng ở Mỹ và Thụy Sỹ, tình trạng tăng cao của nợ công và nợ tư, cùng với rủi ro thị trường tài chính và tiền tệ toàn cầu, đồng thời có sự gia tăng đáng kể về rủi ro nợ xấu và sự vỡ nợ. Các mối đe dọa về an ninh năng lượng và an ninh lương thực vẫn còn tồn tại, trong khi giá cả, lạm phát và lãi suất toàn cầu giảm nhẹ nhưng vẫn duy trì ở mức đáng kể, đồng thời rủi ro về tài chính và tiền tệ gia tăng, làm chậm quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Tình hình này gây ảnh hưởng tiêu cực đến các lĩnh vực như xuất khẩu, đầu tư, tiêu dùng, du lịch quốc tế và thị trường tài chính tại Việt Nam.
Để tạo đà tăng trưởng cho năm 2024, Việt Nam cần tập trung vào việc củng cố và làm mới các động lực tăng trưởng hiện có, đồng thời chú trọng vào việc cơ cấu lại nền kinh tế sau thời kỳ suy thoái kéo dài do đại dịch, và thực hiện các biện pháp khẩn cấp để khắc phục tình trạng yếu kém trong doanh nghiệp và dự án.
Về dự báo tình hình phát triển kinh tế Việt Nam năm 2024, báo cáo “Kinh tế Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024: Cải cách để tăng tốc phục hồi tăng trưởng” đưa ra 2 kịch bản dự báo cho năm 2024, với tăng trưởng kinh tế có thể đạt 6,13% và 6,48%. Xuất khẩu, thặng dư thương mại và lạm phát cũng được dự báo ở mức khả quan.
Kịch bản tích cực đòi hỏi các giải pháp chính sách cải cách nền tảng kinh tế vĩ mô, tăng cường cải cách môi trường kinh doanh, hỗ trợ mô hình kinh tế mới, và cải cách thể chế. Các chuyên gia nhấn mạnh vai trò của thể chế và năng suất lao động trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời đề cập đến những thách thức từ biến động kinh tế thế giới.
Kịch bản tích cực còn nhấn mạnh đến việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển các mô hình kinh tế mới, và cải cách môi trường kinh doanh. Chính phủ cũng đề xuất giải quyết những thách thức như nợ đọng văn bản, kỷ luật, khó khăn trong hấp thụ vốn, nhằm tạo động lực cho phục hồi tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Tốc độ phát triển kinh tế số Việt Nam tiếp tục dẫn đầu Đông Nam Á
Theo kết quả đo lường của Tổng cục Thống kê, tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP năm 2023 là 12,33%, trong đó ngành kinh tế số lõi đóng góp 7,42% (chiếm 60,19%), số hóa các ngành khác đóng góp 4,91% (chiếm 39,81%).
Tỷ trọng kinh tế số trong GDP Việt Nam có xu hướng tăng trưởng trong giai đoạn 2020-2023. Năm 2020, tỷ trọng này là 12,66%; năm 2021 là 12,87%; năm 2022 là 12,63%. Tuy nhiên, năm 2023, tỷ trọng kinh tế số trong GDP có dấu hiệu giảm nhẹ, chỉ đạt 12,33%.
Nguyên nhân là do ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (chiếm khoảng hơn 30% tổng giá trị tăng thêm của hoạt động kinh tế số) giảm do nhu cầu thế giới giảm.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến các hoạt động kinh tế, xã hội bị gián đoạn, dẫn đến sự sụt giảm của một số ngành kinh tế số như thương mại điện tử, du lịch trực tuyến,…
Dù vậy, tỷ trọng kinh tế số trong GDP Việt Nam vẫn ở mức cao so với các nước trong khu vực. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tỷ trọng kinh tế số trong GDP của Việt Nam cao hơn so với Thái Lan (12,1%), Indonesia (8,3%), Philippines (6,9%), Singapore (17,3%), Malaysia (23,1%).
Cuối năm 2023, Bộ Thông tin và Truyền thông đã công bố kết quả chuyển đổi số quốc gia với 62 mục tiêu đề ra. Trong số này, 18 mục tiêu đã được hoàn thành, chiếm 29%, 27 mục tiêu có khả năng hoàn thành cao (43,5%), và 17 mục tiêu còn lại đang đòi hỏi nỗ lực tập trung để hoàn thành đúng hạn (27,5%). Kế hoạch năm 2023 đặt ra 126 nhiệm vụ, trong đó đã hoàn thành 102 nhiệm vụ, đạt tỷ lệ 81%.
Trong lĩnh vực sáng tạo và chuyển đổi số, Việt Nam tiếp tục đứng trong nhóm 50 nước dẫn đầu với thứ hạng 46 trong Chỉ số Đổi mới Sáng tạo của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới năm 2023, tăng 2 bậc so với năm 2022.
Google cũng đã đánh giá tốc độ phát triển kinh tế số của Việt Nam là nhanh nhất Đông Nam Á trong hai năm liên tiếp (28% vào năm 2022 và 19% vào năm 2023), vượt gấp 3,5 lần tốc độ tăng trưởng GDP. Tổng doanh thu từ thị trường nước ngoài của hơn 1.500 doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đạt 7,5 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2022.
Việt Nam cũng nằm trong nhóm 10 nước dẫn đầu về số lượng lượt tải mới ứng dụng di động trong 2 năm liên tiếp, với tăng trưởng 46% người dùng trên các nền tảng số.
Các cơ quan và bộ ngành đã thành công trong việc đơn giản hóa 2.500 quy định kinh doanh và 528/1.086 thủ tục hành chính liên quan đến công dân, tăng cường kết nối và chia sẻ dữ liệu để giải quyết hiệu quả các vấn đề liên ngành.
Với tốc độ tăng trưởng như hiện nay, kinh tế số Việt Nam có thể đạt mục tiêu 20% GDP vào năm 2025. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan, doanh nghiệp, người dân trong việc đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội
Kỳ vọng vào năm Rồng
Theo Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số, năm 2024 là năm “Phát triển kinh tế số với 4 trụ cột công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số – Động lực quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững”.
Chỉ tiêu được đặt ra trong lĩnh vực kinh tế số năm 2024 với tổng doanh thu lĩnh vực kinh tế số nền tảng đạt 40 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng kinh tế số nền tảng từ 20-25%. Tỷ lệ đóng góp của tổng các cấu phần kinh tế số vào GDP đạt từ 19%-20%. Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt 7,5%.
Định hướng đến năm 2025, kinh tế số chiếm trên 20% GDP cả nước, tăng trưởng từ 20% – 25%/năm, gấp 3 lần tăng trưởng GDP. Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%.
Chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số của Việt Nam đã chính thức đặt ra những mục tiêu quan trọng nhằm thúc đẩy sự chuyển đổi số trong xã hội và kinh tế, đồng thời tạo ra cơ hội và thách thức mới. Chiến lược này đã xác định rõ những mục tiêu cụ thể đến năm 2024:
Phát triển Dữ liệu Số: Xây dựng Cơ sở Dữ liệu Quốc gia về người dân, doanh nghiệp, và đất đai, đạt 100% đối với mỗi lĩnh vực.
Phát triển Định danh Số: Đạt tỷ lệ 70% dân số sở hữu danh tính số, với mỗi danh tính phát sinh trung bình 100 lượt sử dụng mỗi năm.
Phát triển Thanh toán Số: Tỷ lệ người dân có tài khoản thanh toán điện tử đạt 80%, với 50% thanh toán thương mại điện tử không sử dụng tiền mặt. Tỷ lệ thanh toán hóa đơn điện, nước không sử dụng tiền mặt đạt 75%.
Phát triển Kỹ năng Số: Đào tạo kỹ năng số cho 70% công nhân tuyển dụng mới và đào tạo lại. Tỷ lệ nông dân được đào tạo về kỹ năng số cơ bản đạt tối thiểu 50%. 100% học sinh phổ thông và sinh viên được đào tạo kỹ năng số.
Phát triển Nhân lực Số: Tỷ lệ học sinh phổ thông tiếp cận STEM/STEAM đạt 70%. Đưa vào hoạt động 5 đại học số thí điểm. Tổng số nhân lực công nghệ số Việt Nam đạt 1,5 triệu người.
Việt Nam, với quy mô dân số lớn và sự thích ứng nhanh chóng của người dân với công nghệ mới, có cơ hội lớn để thúc đẩy kinh tế số và xã hội số theo lộ trình của chiến lược quốc gia. Đây sẽ đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Nguồn: TS. TRẦN QUÝ – Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam